Câu 5 :

1.Trình bày hai giai đoạn của quá trình nhận thức, sự thống nhất biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính?

             2. Thực tiễn là gì? Phân tích vai trò của thực tiễn đối với nhận thức? cho ví dụ.

a) Quá trình nhận thức của con người phát triển qua hai giai đoạn: Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng.

 + Trực quan sinh động (nhận thức cảm tính)

Là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Đó là sự phản ánh trực tiếp, cụ thể, sinh động, phong phú  các sự vật khách quan bằng các giác quan của con người. Nó được thể hiện dưới ba hình thức là: Cảm giác, tri giác, biểu tượng.

+ Cảm giác: Là sự phản ánh từng mặt, từng thuộc tính bên ngoài của sự vật khi các sự vật đó tác động trực tiếp vào các giác quan của con người.

+ Tri giác: Là sự phản ánh tổng hợp nhiều cảm giác, nó đem lại hình ảnh hoàn chỉnh hơn về sự vật.

+ Biểu tượng: Là hình ảnh về sự vật được giữ lại trong trí nhớ một cách khái quát khi không còn trực tiếp tiếp xúc với sự vật.

Đặc điểm của nhận thức cảm tính là sự phản ánh trực tiếp, sinh động, phong phú, nhưng đó là sự phản ánh bề ngoài của sự vật.

+ Tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính)

Là giai đoạn tiếp theo và cao hơn về chất của quá trình nhận thức. đó là sự phản ánh gián tiếp và khái quát hiện thực khách quan. Nó được thể hiện ở các hình thức như: Khái niệm, phán đoán, suy lý.

+ Khái niệm : Là hình thức của tư duy trừu tượng, phản ánh những mối liên hệ và thuộc tính bản chất, phổ biến của một lớp các sự vật hiện tượng.

+ Phán đoán : Là hình thức của tư duy trừu tượng, vận dụng các khái niệm đã có để khẳng định hay phủ định một thuộc tính, một mối liên hệ nào đó của hiện thực khách quan.

+ Suy lý : Là hình thức của tư duy trừu tượng trong đó xuất phát từ một hay nhiều phán đoán làm tiền đề để rút ra phán đoán mới làm kết luận.

Đặc điểm của nhận thức lý tính là sự phản ánh gián tiếp, trừu tượng, khái quát, đó là sự phản ánh bản chất, quy luật của sự vật.

 + Sự thống nhất biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính

Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn khác nhau về chất, có đặc điểm và vai trò khác nhau trong việc nhận thức sự vật khách quan. Tuy nhiên chúng lại thống nhất biện chứng với nhau, liên hệ, tác động, bổ sung cho nhau, không tách rời nhau. Nhận thức cảm tính là cơ sở, tiền đề và điều kiện của nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính không thể thực hiện được nếu thiếu những tri thức do nhận thức cảm tính mang lại. Trái lại, nhận thứccảm tính mà không có nhận thức lý tính thì không thể nắm bắt được bản chất và quy luật của sự vật. Vì vậy, cần phát triển nhận thức cảm tính lên lý tính, nhận thức lý tính sẽ giúp cho nhận thức cảm tính trở nên chính xác hơn.

         Tóm lại, có thể khẳng định: ..........................................................

b. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:

Thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử -    xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.

+ Thực tiễn gồm có những dạng cơ bản sau đây:

- Hoạt động sản xuất vật chất

- Hoạt động chính trị – xã hội

- Hoạt động thực nghiệm khoa học

Trong đó:

- Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động đầu tiên, cơ bản nhất . Nó tồn tại cùng với quá trình tồn tại và phát triển của xã hội loài người, là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên.

- Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của cộng đồng người nhằm cải biến những quan hệ chính trị - xã hội theo hướng tiến bộ.

- Hoạt động thực nghiệm khoa học là quá trình mô phỏng hiện thực khách quan dưới hình thức thu nhỏ để chứng minh giả thuyết, những kết luận để hình thành chân lý hay để đề xuất chân lý.

*Mỗi hình thức của hoạt động thực tiễn có một chức năng quan trọng khác nhau, không thể thay thế cho nhau, song chúng có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Trong ba dạng cơ bản trên, hoạt động sản xuất vật chất giữa vai trò quyết định, hai dạng hoạt động còn lại cũng có sự tác động trở lại hoạt động sản xuất vật chất.

- Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

* Thực tiễn là cơ sở của nhận thức thể hiện ở chỗ: Thực tiễn là điểm xuất phát để nhận thức. Con người có nhu cầu tất yếu khách quan là phải giải thích thế giới, cải tạo thế giới nên con người phải tác động vào sự vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Sự tác động đó làm cho sự vật bộc lộ những thuộc tính, những mối quan hệ. Xét đến cùng mọi tri thức của con người xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn. Chính thực tiễn đã cung cấp những tài liệu cho nhận thức, cho lý luận.

 * Thực tiễn là động lực của nhận thức thể hiện ở chỗ: Thực tiễn luôn đặt ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng cho nhận thức phát triển. Khi những tri thức, những kết quả của nhận thức được vận dụng làm phương pháp chung cho hoạt động thực tiễn, mang lại lợi ích cho con người, càng kích thích con người tích cực bám sát vào hoạt động thực tiễn.

* Thực tiễn là mục đích của nhận thức thể hiện ở chỗ: Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân tri thức mà để cải tạo hiện thực khách quan. Thế nên nhận thức của con người phải quay về phục vụ thực tiễn, kết quả nhận thức phải hướng dẫn, chỉ đạo thực tiễn. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn.

 *Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý

Để kiểm tra tính đúng đắn của nhận thức, ngoài tiêu chuẩn thực tiễn ra không có tiêu chuẩn nào khác. Nói cách khác chỉ có đem tri thức thu được áp dụng vào trong thực tiễn mới thấy được tính đúng đắn của tri thức.

Thông qua hoạt động thực tiễn, những tri thức đạt đến chân lý sẽ được bổ sung vào kho tàng tri thức nhân loại, những kết luận chưa phù hợp với thực tiễn sẽ được tiếp tục bổ sung, điều chỉnh và nhận thức lại. Giá trị của tri thức nhất thiết phải được chứng minh trong hoạt động thực tiễn.

* Ý nghĩa phương pháp luận

Sự phân tích trên đây về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, tổng kết thực tiễn. Hoạt động thực tiễn càng phong phú và đa dạng thì tri thức sẽ càng đầy đủ và đa dạng hơn.

Đồng thời, lý luận phải đi đôi với thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu lý luận mà không gắn với thực tiễn thì đó chỉ là lý luận suông, thực tiễn mà không gắn với lý luận sẽ trở thành thực tiễn mù quáng. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới các bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc…Nếu tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn thì sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa kinh nghiệm, thế nên cần phải thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.

 

Câu 6:Anh( chị) hãy trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành từ những nguồn gốc nào? Nguồn gốc nào giữ vai trò quan trọng?

 

1, Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành từ những nguồn gốc chủ yếu sau:

Một là: Chủ nghĩa Mác-Lênin là nhân tố ảnh hưởng và tác động quyết định đến quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đó là cơ sở hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của Hồ Chí Minh, nhờ đó mà Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã có bước phát triển về chất từ một người yêu nước trở thành một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, tìm ra con đường cứu nước đúng đắn. Chính trên cơ sở của lý luận Mác-Lênin đã giúp Người tiếp thu và chuyển hoá những nhân tố tích cực, những giá trị và tinh hoa văn hoá của dân tộc và của nhân loại để tạo nên tư tưởng của mình phù hợp với xu thế vận động của lịch sử. Vì vậy, trong quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh thì chủ nghĩa Mác-Lênin có vai trò to lớn, là cơ sở, nguồn gốc chủ yếu nhất.

Hai là: Tư tưởng Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc:

Trải qua mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã hun đúc, tạo lập cho dân ta một nền văn hoá phong phú, đa dạng và thống nhất bền vững với những giá trị truyền thống tốt đẹp, cao quý, trong đó chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là nấc thang cao nhất của văn hoá Việt Nam.

Đây là tài sản có giá trị nhất trong hành trang của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là cơ sở xuất phát, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, là động lực giúp Người vượt qua mọi gian nan thử thách, hiểm nguy. Đây là nguồn gốc, là một cơ sở quan trọng để hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.

Ba là: Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại

Hồ Chí Minh đã tiếp thu có chọn lọc những yếu tố tích cực của văn hoá phương Đông trong Nho giáo và Phật giáo, như lòng vị tha, tư tưởng từ bi bác ái, tình yêu thương con người; triết lý hành đạo giúp đời, tu thân dưỡng tính, truyền thống hiếu học…

Tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, dân chủ và phong cách dân chủ, nhân quyền của văn hoá phương Tây…

Như vậy, trên con đường hoạt động cách mạng Người đã làm giàu trí tuệ của mình bằng trí tuệ của thời đại: Đông, Tây, kim, cổ…, vừa thu hái, vừa gạn lọc, suy nghĩ và lựa chọn, kế thừa, vận dụng, phát triển góp phần làm phong phú, tạo nên tư tưởng của Người.

Bốn là: Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh.

Trước hết, đó là tư chất thông minh, tư duy độc lập tự chủ, sáng tạo cộng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong việc nghiên cứu, tìm hiểu và vận dụng, phát huy tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của thời đại và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn qua các phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động quốc tế. Đó là tâm hồn, ý chí phi thường của một nhà yêu nước, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành, một trái tim yêu nước thương dân, thương yêu con người, sẵn sàng chịu đựng những gian khổ hy sinh vì độc lập của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.

Chính những phẩm chất cá nhân hiếm có đó đã quyết định việc Hồ Chí Minh tiếp nhận, chọn lọc chuyển hoá, phát triển những tinh hoa của dân tộc và của thời đại thành tư tưởng đặc sắc của Người.

2. Nguồn gốc nào là quan trọng nhất: ............................................................

Câu 7. Hệ thống chính trị là gì? Hệ thống chính trị ở Việt Nam bao gồm những tổ chức nào? Nêu vị trí, vai trò và nhiệm vụ của từng tổ chức.

          * Khái niệm hệ thống chính trị

Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị – xã hội hợp pháp, các đảng chính trị hợp pháp và Nhà nước của chủ thể cầm quyền cùng quan hệ qua lại giữa các yếu tố đó để tác động vào các quá trình kinh tế – xã hội nhằm củng cố, duy trì và phát triển chế độ xã hội đương thời.

*  Cấu trúc của Hệ thống chính trị nước ta hiện nay bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội khác.

+ Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị nhưng lại là hạt nhân lãnh đạo của toàn bộ hệ thống chính trị. Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:

Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, những quan điểm, chủ trương phát triển kinh tế-xã hội; đồng thời Đảng là người lãnh đạo và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng.

Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và các đoàn thể quần chúng. Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp nhận, thể chế hoá cụ thể bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế hoạch, chương trình cụ thể. Vì vậy, Đảng luôn quan tâm đến việc xây dựng Nhà nước và bộ máy của Nhà nước, đồng thời kiểm tra việc Nhà nước thực hiện các Nghị quyết của Đảng.

Đảng lãnh đạo xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ bằng việc xác định đường lối, chính sách cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán bộ có đủ tiêu chuẩn vào các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và các đoàn thể quần chúng và các tổ chức chính trị - xã hội.

Ngoài ra, Đảng lãnh đạo bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục và nêu gương, làm công tác vận động quần chúng, lãnh đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ...

+ Nhà nước: Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị ở nước ta, là công cụ tổ chức thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân để quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Đó chính là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mặt khác, Nhà nước chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.

Như vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy chính trị, hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội của nhân dân. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội do nhân dân trực tiếp bầu ra, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập ra Hiến pháp và luật pháp (lập hiến và lập pháp). Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Với ý nghĩa đó, Quốc hội được gọi là cơ quan lập pháp. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của Nhà nước. Chính phủ là cơ quan chấp hành, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và phải báo cáo công tác với Quốc hội. Trên ý nghĩa đó, Chính phủ được gọi là cơ quan hành pháp.

Cơ quan tư pháp gồm: Toà án, Viện kiểm sát và các cơ quan điều tra. Đây là những cơ quan được lập ra trong hệ thống tổ chức Nhà nước để xử lý những tổ chức và cá nhân vi phạm pháp luật, đảm bảo việc thực thi pháp luật một cách nghiêm minh, chính xác.

Toà án các cấp là cơ quan nhân danh Nhà nước, thể hiện thái độ và ý chí của Nhà nước trước các vụ án thông qua hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Toà án là cơ quan duy nhất có quyền áp dụng chế tài hình sự, không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật.

Để đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, đảm bảo việc xét xử đúng người đúng tội, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức thành hệ thống, tập trung thống nhất và độc lập thực hiện thẩm quyền của mình đối với các cơ quan khác của Nhà nước. Thực hiện các quyền khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra, truy tố...Với ý nghĩa đó, các tổ chức Toà án, Viện kiểm sát được gọi là cơ quan tư pháp.           Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Vì vậy, cần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

 + Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội khác: Đây là những tổ chức chính trị-xã hội hợp pháp được tổ chức để tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản đại diện cho lợi ích của nhân dân, tham gia vào hệ thống chính trị, tuỳ theo tính chất, tôn chỉ, mục đích của mình nhằm bảo vệ quyền lợi dân chủ của nhân dân.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước; phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của các hội viên, đoàn viên, giữ gìn kỷ cương phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng; phát huy khả năng tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân; tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; thực hiện giám sát của nhân dân với cán bộ, công chức và giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.

Các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân có nhiệm vụ giáo dục chính trị tư tưởng, động viên và phát huy tính tích cực xã hội của các tầng lớp nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị; chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của nhân dân; tham gia vào công việc quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần thực hiện và thúc đẩy quá trình dân chủ hoá và đổi mới xã hội, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

Hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức theo một hệ thống từ Trung ương đến cơ sở. Cơ sở phân cấp theo quản lý hành chính gồm có xã, phường, thị trấn. Hệ thống chính trị ở cơ sở bao gồm: Tổ chức cơ sở Đảng, Hội đồng Nhân dân xã, phường; Uỷ ban Nhân dân xã, phường; Mặt trận Tổ quốc xã, phường và các tổ chức chính trị-xã hội khác như: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh xã, phường, thị trấn… Tất cả các tổ chức trên đều có vị trí, vai trò và nhiệm vụ được quy định trong Luật Tổ chức của hệ thống chính trị ở nước ta.

Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế-xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.

 

Câu 8:

1. Vì sao môi trường tự nhiên là điều kiện vật chất của đời sống xã hội?

            2. Vì sao nói vấn đề bảo vệ môi sinh hiện nay mang tính toàn cầu cấp bách? Trước vấn đề này chủ trương, chính sách, biện pháp cụ thể của Đảng ta như thế nào? Bản thân anh, chị cần làm gì để bảo vệ môi trường sinh thái?

a. Môi trường tự nhiên là điều kiện vật chất của đời sống xã hội bởi vì:

+ Môi trường là nơi sinh sống và hoạt động của con người, là nơi tồn tại của xã hội. Giữa xã hội và tự nhiên thường xuyên diễn ra sự trao đổi vật chất. Sự trao đổi đó được thực hiện trong quá trình lao động sản xuất. Điều kiện tự nhiên là yếu tố thường xuyên, tất yếu đối với sự tồn tại và phát triển xã hội tuy nó không phải là yếi tố quyết định chính sự phát triển của xã hội.

+ Điều kiện tự nhiên như đất đai, sông, biển, khí hậu có thể tạo những thuận lợi hoặc gây khó khăn cho sản xuất, cho đời sống sinh hoạt hàng ngày của con người. Mặc dù vậy nó vẫn không giữ vai trò quyết định sự phát triển xã hội. Bản thân xã hội là một hệ thống khác về chất so với giới tự nhiên. Nó có quy luật vận động và phát triển riêng của nó. Tự nhiên tác động vào xã hội hoàn toàn mang tính tự phát, còn xã hội tác động vào tự nhiên, bao giờ cũng thông qua hoạt động có ý thức của con người. Sự tác động đó có thể diễn ra theo hai hướng: làm cho nó tốt lên hoặc xấu đi.

 b. Vì sao nói vấn đề bảo vệ môi sinh hiện nay mang tính toàn cầu cấp bách? Trước vấn đề này chủ trương, chính sách, biện pháp cụ thể của Đảng ta như thế nào? Bản thân anh, chị cần làm gì để bảo vệ môi trường sinh thái?

- Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên." (Theo Điều 1, Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam)

- Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá học, sinh học, tồn tại khách quan và có vài trò rất lớn đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Môi trường tự nhiên cung cấp cho chúng ta không khí, các loại tài nguyên khoáng sản, rừng, biển, sông ngoài và là nơi chứa đựng, đồng hoá các chất thải….

- Tuy nhiên trong quá trình sống con người đã có những tác động lớn đến môi trường tự nhiên,đặc biệt là dưới tác động của sự phát triển kinh tế hiện nay đã có những ảnh hưởng tiêu cực làm cho môi trường sinh thái đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn về ô nhiễm nước, không khí, đất, phóng xạ, tiếng ồn….do chất thải, nước thải và khí thải của các ngành công nghiệp. Những thách thức này nếu không được giải quyết tốt có thể sẽ gây ra những thảm họa về môi trường và biến đổi khí hậu như hiệu ứng nhà kính, tầng ozon bị phá hủy, mất can bằng trong đa dạng sinh học, sa mạc hóa suy giảm rừng, thiên tai, bảo lũ, các sự cồ môi trường…Ngoài ra còn tác động nghiêm trọng đến đời sống, sức khỏe của con người, phá hỏng những thành tựu mà con người đã đạt được.

Vì vậy,

+ Ngày nay bảo vệ môi sinh là vấn đề có tính toàn cầu cấp bách, nhằm bảo vệ loài người thoát khỏi những hậu quả do chính mình gây ra.

+ Việc bảo vệ và sử dụng môi trường thiên nhiên một cách thông minh, khôn ngoan trong phạm vi mỗi nước và trên toàn cầu trở thành một vấn đề sống còn đối với loài người. Điều đó phải được tiến hành theo chương trình kế hoạch thống nhất, không chỉ trong phạm vi quốc gia, châu lục mà phải toàn thế giới, nhằm phục vụ tốt nhất cho cuộc sống của con người.

  + Ở Việt Nam, gần một thế kỷ sống dưới ách đô hộ của thực dân Pháp và trải qua hơn   ba mươi năm chiến tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, môi trường tư nhiên bị phá hoại nghiêm trọng: Hàng trăm kilômét vuông rừng tự nhiên và đất canh tác bị chất độc hoá học huỷ diệt và bom đạn cày xới; …đặc biệt hiện nay nước ta thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá và đương nhiên là kéo theo đô thị hoá nên tình hình ô nhiễm môi trường cũng gia tăng nhanh chóng. Trong quá trình phát triển, nhất là trong thập kỷ vừa qua, các đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, đã gặp phải nhiều vấn đề môi trường ngày càng nghiêm trọng, do các hoạt động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải và sinh hoạt gây ra


+ Trước những vấn đề về ô nhiễm môi trường như trên, các quốc gia đã đề ra nhiều giải pháp tương đối đồng bộ giải quyết các vấn đề về môi trường. Các chính sách, chiến lược về công nghệ, nhân lực, giải pháp xã hội, các cộng cụ kinh tế và các biện pháp quan trắc theo dõi, kèm theo một số dự án hoặc nghiên cúu sâu đối với các trường hợp cụ thể.

-          Với yêu cấu bức thiết mang tính toàn cầu đó, để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, Đảng ta đã chỉ rõ:

+ Đẩy mạnh các công trình nghiên cứu làm cơ sở cho việc bảo vệ có hiệu lực các hệ sinh thái; chú trọng đề xuất các biện pháp chống ô nhiễm không khí, nguồn nước, chống thoái hoá đất canh tác, chống các tác nhân độc hại trong sản xuất và sinh hoạt.

+  Đồng thời đề ra nhiều chủ trương, chính sách cụ thể để bảo vệ môi trường sinh thái, như xây dựng cơ cấu công – nông nghiệp hợp lý; kết hợp nông – lâm – ngư – nghiệp; chủ trương giao đất giao rừng trồng cây gây rừng, nghiêm cấm đốt phá rừng, khai thác khoáng sản một cách bừa bãi, gây huỷ hoại môi trường, làm mất cân bằng sinh thái; Thải khói, bụi, khí độc, mùi hôi thối gây hại vào không khí; phát phóng xạ, bức xạ quá giới hạn cho phép vào môi trường xung quanh; chôn vùi, thải vào đất các chất độc hại quá giới hạn cho phép; Khai thác, kinh doanh các loại thực vật, động vật quý hiếm trong danh mục quy định của Chính phủ; Nhập khẩu công nghệ, thiết bị không đáp ứng tiêu chuẩn môi trường, nhập khẩu, xuất khẩu chất thải; Sử dụng các phương pháp, phương tiện, công cụ huỷ diệt hàng loạt trong khai thác, đánh bắt các nguồn động vật, thực vật. Xây dựng các phương tiện vận tải công cộng hiện đại như xe bus,tàu điện ngầm, tàu điện trên cao...Sử dụng nhiên liệu sạchnhư điện, ga, Hydro, năng lượng mặt trời... xây dựng nhà máy xử lí nước thải; tổ chức quản lý và kiểm soát chất lượng nguồn nước; đề ra những luật lệ cần thiết, có hiệu lực để bảo vệ sinh thái…

   + Tổ chức thực hiện việc giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học và công nghệ, phổ biến kiến thức khoa học và pháp luật về bảo vệ môi trường. Tuyên truyền vận động quần chúng hưởng ứng các chương trình bảo vệ môi trường

Đồng thời với các giải pháp mang tính chiến lược tổng thể của nhà nước thì ý thức và trách nhiệm của mỗi người dân trong chúng ta cũng đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc giữ gìn và bảo vệ môi trường tự nhiên. Vì vậy, Luật Bảo vệ Môi trường của nước ta ghi rõ trong Điều 6: "Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn dân. Tổ chức, cá nhân phải có trách nhiệm bảo vệ môi trường, thi hành pháp luật về bảo vệ môi trường, có quyền và có trách nhiệm phát hiện, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường".

-       Sinh viên tự liên hệ ý thức bảo vệ môi trường sinh thái của mình.